Thân Cảnh Phúc trong kháng chiến chống Tống

1. Trong kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, các dân tộc thiểu số vùng núi rừng phía bắc cùng các tù trưởng của họ giữ vai trò rất quan trọng và có nhiều cống hiến xuất sắc, góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp bảo vệ đất nước. Sau khi giành lại độc lập từ thế kỷ X, trong giai đoạn đầu các vương triều Ngô (939 - 965), Đinh (968 - 979), Tiền Lê (980 - 1009) còn lo chống lại các thế lực cát cứ địa phương, bảo vệ và củng cố chính quyền trung ương. Qua cuộc xâm lược của quân Tống năm 980 - 981 đời Tiền Lê và trước âm mưu xâm lược mới của nhà Tống thế kỷ XI, nhà Lý (1009 - 1225) đặc biệt quan tâm đến biên giới phía bắc, nhất vùng núi rừng biên cương rộng lớn trải dài từ châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) đến châu Vĩnh An (Quảng Ninh), giáp với Khâm Châu của Tống, là vùng đất tập trung những con đường thủy bộ từ Tống sang Đại Việt. Theo Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi với Lời tựa năm Mậu Tuất niên hiệu Thuần Hy (1178) thì vào thời Tống, đường vào Đại Việt có đường thủy ven biển từ Khâm Châu qua Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Thăng Long mất 5 ngày; đường bộ từ Ung Châu đến Thăng Long có 3 đường: đường chính từ trại Vĩnh Bình theo sông Ô Bì (Kỳ Cùng), sông Đào Hoa (sông Thương), sông Nam Định hay còn gọi là sông Phú Lương (sông Cầu), tức con đường Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội hiện nay, mất 4 ngày; hai đường phía tây xa hơn, một đường từ trại Thái Bình qua tây Lạng Sơn mất 6 ngày, một đường từ trại Ôn Nhuận qua Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên mất 12 ngày [1].


Tượng Thân Cảnh Phúc tại đền Hả

Trước mối đe dọa xâm lăng của nhà Tống, nhà Lý đặc biệt lo kinh dinh, củng cố vùng biên cương trọng yếu này. Đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc thiểu số mà trong thư tịch cổ của ta thường gọi chung là "Man" và thư tịch đời Tống cũng gọi là "Man" hay "Lý", "Lão" (có thể đọc là "Liễu"). Các dân tộc này phần lớn là hậu duệ của người Việt cổ, tức người Lạc Việt hay Âu Việt, cư dân của Văn lang, Âu Lạc thời dựng nước. Các tù trưởng đời đời thế tập, trong đó có những họ có thế lực lớn trong vùng như họ Nùng ở Quảng Nguyên (Cao Bằng), họ Vi ở Tô Mậu (đông Bắc Giang, tây Quảng Ninh), họ Hoàng ở Vĩnh An (đông bắc Quảng Ninh)..., đặc biệt như họ Giáp/Thân ở Lạng Châu (Bắc Giang, nam Lạng Sơn). Các dân tộc thiểu số sống trong vùng núi rừng, bên các khe suối và hang động nên địa bàn cư trú của họ thường mang tên "khê" hay "động", thường gọi chung là "khê động", tuy các vùng đất đó đã nằm trong các đơn vị hành chính của vương triều Lý gọi là phủ, châu.
Vùng đất trung tâm của họ Giáp/Thân gọi là động Giáp thuộc Lạng Châu. Theo xác định của GS. Hoàng Xuân Hãn thì động Giáp ở khoảng Bắc Giang và nam Lạng Sơn ngày nay, trên lưu vực Nam Bình tức sông Thương [2]. Đây là vùng đất giữ vị trí rất trọng yếu nằm trên con đường bộ chủ yếu từ đất Tống sang Đại Việt tiến về Thăng Long, con đường đi qua địa hình núi rừng trùng điệp với những đèo ải rất hiểm yếu như ải Quyết Lý (bắc Ôn Châu, nay thuộc huyện Chi Lăng, Lạng Sơn) và ải Giáp Khẩu (ải Chi Lăng, Lạng Sơn).

Trong công cuộc bang giao và giao tranh Lý - Tống, hai bên đều rất quan tâm đến vùng núi rừng biên cương giữa hai nước, ra sức tranh thủ các tù trưởng và củng cố các trại biên giới. Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở Quảng Nguyên (Cao Bằng) rồi đánh sang đất Tống, chiếm thành Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây), lập nước đặt quốc hiệu Đại Nam, tự xưng Hoàng đế. Quân họ Nùng phá nhiều châu trại rồi tiến công thành Quảng Châu, làm chấn động cả vùng Lưỡng Quảng. Nhà Tống phải điều tướng Địch Thanh từ vùng chiến trận chống Hạ ở Thiểm Tây về phương nam để đối phó. Quân họ Nùng bị tổn thất, năm 1053 phải rút về Đặc Ma (Vân Nam) và hai năm sau bị tan vỡ. Chính cuộc nổi dậy và hoạt động của Nùng Trí Cao trên đất Tống làm cho nhà Lý thấy rõ mặt yếu của nhà Tống trên biên thùy phía nam và trên cơ sở đó, đã tiến hành những biện pháp kiên quyết để mở rộng thế lực và ảnh hưởng vùng biên giới giáp Tống cũng như chủ trương "tiên phát chế nhân" nhằm chống lại âm mưu xâm lược của nhà Tống.

Chính sách chung của nhà Lý đối với vùng biên giới phía bắc là một mặt sắp đặt vùng đất này trong hệ thống các đơn vị hành chính lộ, phủ, châu của triều đình, nhưng giao cho các tù trưởng cai quản với danh hiệu Châu mục của triều đình trung ương. Các tù trưởng Châu mục đều được phong chức tước và một số tù trưởng có thế lực trên những địa bàn trọng yếu còn được nhà vua gả công chúa, trở thành Phò mã. Trong chính sách biên cương, nhà Lý kết hợp ân và uy, cương và nhu, ứng xử mềm mỏng và kiến quyết. Trường hợp những tù trưởng có ý đồ cát cứ, liên kết với nước ngoài đều bị trừng phạt. Trong thế kỷ XI, các vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã có những lần thân chinh hoặc cử các vương tử, tướng soái cầm quân lên đánh dẹp những cuộc nổi dậy như vậy.

2. Tù trưởng Phò mã đầu tiên của nhà Lý là Giáp Thừa Quý ở động Giáp. Mộng Khê bút đàm của Thẩm Hoạt đời Tống chép: "Giáp động là một bộ lạc lớn. Chủ động tên là Giáp Thừa Quý lấy con gái Lý Công Uẩn rồi đổi ra họ Thân" (Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, T. I, tr. 95. Tống sử, Q. 488).
Trong chữ Hán, chữ Thân chỉ khác chữ Giáp là kéo dài thêm nét sổ lên phía trên, ý để phân biệt dòng quý tộc phò mã so với dòng bình dân. Từ đó ba đời liền họ Thân làm phò mã vua nhà Lý:
- Thân Thừa Quý lấy công chúa con vua Lý Thái Tổ
- Con là Thân Thiệu Thái lấy công chúa Bình Dương của vua Lý Thái Tông năm 1029 [3].
- Con Thân Thiệu Thái là Thân Cảnh Phúc lấy công chúa Thiên Thành của vua Lý Thánh Tông năm 1066 [4].

Cả ba Phò mã trên đều giữ chức Châu mục Lạng Châu. Họ đều rất trung thành với nhà Lý và có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ vùng biên cương, chống lại mối đe dọa và xâm lăng của nhà Tống, đặc biệt là Phò mã Thân Cảnh Phúc.

Năm 1028, do sự gây rối ở biên giới, Phò mã Thân Thừa Quý được lệnh đem quân vào đất Tống, buộc viên quan coi Ung Châu phải bàn hòa.
Năm 1059, lại xảy ra cuộc xung đột biên giới giữa Lạng Châu giáp châu Tây Bình thuộc Ung Châu. Một số dân ta trốn sang Tây Bình bị viên cai quản ở đó dấu đi, Phò mã Châu mục Lạng Châu Thân Thiệu Thái đem quân từ động Giáp sang đòi lại. Viên Đô giám tuần kiểm Ung Châu là Tống Sĩ Nghiêm chống lại, đẩy quân ta rút lui rồi vượt biên giới, xâm phạm động Giáp. Thân Thiệu Thái đánh tan quân Tống và năm sau (1060), đem quân đánh sang châu Tây Bình, giết chết Tống Sĩ Nghiêm, tiến công trại Vĩnh Bình gây chấn động cả vùng Ung Châu [5]. Quân của Thân Thiệu Thái bắt sống một tướng Tống là Chỉ huy sứ Dương Lữ Tài [6], thu nhiều người và của. Hai viên quan trấn thủ Ung Châu là Tiêu Chú và Quế Châu là Tiêu Cố bị cách chức và nhà Tống cử Lại bộ Thị lang Dư Tĩnh làm An Phủ sứ xuống lo thu xếp cuộc xung đột. Cuối cùng hai bên bàn hòa, Châu mục họ Thân rút quân về nước.

Vào thế kỷ XI, Đại Tống là một đế chế lớn mạnh ở phương Đông, nhưng đang bị hai nước Liêu và Hạ uy hiếp ở phương bắc. Do đó, lúc đầu nhà Tống phải tập trung lực lượng lo đối phó mặt bắc và áp dụng chính sách hòa hoãn ở mặt nam, nhất là sau lần xâm lăng thất bại năm 981 đời Tiền Lê. Nhưng từ năm 1068, khi Tống Thần Tông lên ngôi, dùng Vương An Thạch làm Tể tướng thì chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Tống có nhiều thay đổi. Vua tôi nhà Tống thực hành "Tân pháp", áp dụng một số cải cách nhằm làm dịu các mâu thuẫn xã hội, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, tăng cường thế nước. Về đối ngoại, nhà Tống chủ trương tạm hòa với Liêu, Hạ để mở cuộc chinh phạt xuống phương nam, chiếm nước Đại Việt. Khi vua Lý Thánh Tông mất (năm 1072) và nội bộ triều Lý có mâu thuẫn, nhà Tống coi đó là thời cơ để thực hiện ý đồ chinh phạt. Trong sự tính toán của nhà Tống, cuộc dụng binh phương nam này rất quan trọng, ảnh hưởng chi phối đến toàn bộ tình hình an nguy của triều đình, nhất là sự thành bại của tân pháp và mối đe dọa của hai nước cừu địch ở phương bắc. Cuộc đấu tranh giữa hai phái cải cách và bảo thủ trong triều cũng là khó khăn trong hành động của vua Tống và Tể tướng họ Vương. Mâu thuẫn nội bộ đã có lúc buộc Vương An Thạch phải rút lui cương vị Tể tướng trong 10 tháng (năm 1074 - đầu năm 1075). Do đó, nhà Tống chuẩn bị rất chu đáo và có lúc tỏ ra do dự trong ứng xử đối với nhà Lý. Tuy nhiên công việc chuẩn bị xâm lược Đại Việt vẫn được xúc tiến và thành Ung Châu cùng cảng Khâm, Liêm và các trại vùng giáp biên đã dần dần trở thành những căn cứ quân sự và hậu cần đe dọa chủ quyền và an ninh của Đại Việt. Một thủ đoạn nguy hiểm của nhà Tống là lôi kéo vua Champa ở phía nam và ra sức dụ dỗ các tù trưởng thiểu số vùng biên cương phía bắc.

Triều Lý, mà tiêu biểu là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Thái úy Lý Thường Kiệt đã kiên quyết đối phó và đưa ra những kế sách rất chủ động, làm thất bại các thủ đoạn của đối phương, chuẩn bị rất chu đáo cho cuộc kháng chiến giữ nước. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt đã tiến công về phía nam, phá tan lực lượng quân sự của Champa, trừ khử mối đe dọa hậu phương phía nam. Chủ trương tranh thủ các tù trưởng thiểu số và chính sách cương giới tích cực đã tăng cường sự cố kết dân tộc, chuẩn bị địa bàn mang ý nghĩa chiến lược cho cuộc kháng chiến.

3. Trước mưu đồ xâm lược và công việc chuẩn bị của nhà Tống đã rõ rệt, nhà Lý và Lý Thường Kiệt chủ trương:
"Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để bẻ gãy mũi nhọn của giặc" [7]. Cuối năm 1075, nhà Lý bất ngờ mở cuộc tập kích vào đất Tống nhằm tiêu diệt các căn cứ xâm lược và hậu cần của đối phương mà trung tâm là thành Ung Châu. Khoảng 10 vạn quân được huy động vào cuộc tập kích này, đặt dưới quyền chỉ huy của Lý Thường Kiệt. Chủ lực là thủy quân, tập trung ở Vĩnh An, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, vượt biển tiến công chiếm Khâm Châu (30/12/1075), Liêm Châu (02/01/1076) rồi tiến lên Ung Châu. Trong lúc đó, quân bộ đã tập kết sẵn ở vùng biên giới, do Tông Đản chỉ huy, đánh chiếm các trại quân Tống ở vùng biên giới, rồi cùng tiến lên Ung Châu. Thành Ung Châu bị bao vây từ ngày 18/01/1076 và ở đây đã diễn ra một trận quyết chiến rất quyết liệt. Sau 42 ngày vây hãm và công phá, quân nhà Lý chiếm thành Ung Châu ngày 01/3/1076. Sau khi sai phá hủy thành lũy cùng tất cả các căn cứ chuẩn bị xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt lập tức lui quân về nước để kịp thời lo ứng phó với cuộc tiến quân của quân Tống.

Cuộc tập kích thành Ung Châu thắng lợi là bước mở đầu chủ động cho cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống, giáng cho quân xâm lăng một đòn phủ đầu bất ngờ, choáng váng, tác động mạnh đến tinh thần của nhà Tống, đẩy quân xâm lược vào thế bị động và tạo thế chủ động cùng những điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt. Trong cuộc tập kích này, các dân tộc thiểu số vùng biên cương phía bắc cùng các tù trưởng của họ có nhiều cống hiến lớn lao, trong đó có Phò mã Thân Cảnh Phúc.

Đạo quân bộ tập trung ở vùng biên giới gọi "quân thượng du" hay "thổ quân" hay "quân Man động" đều là lực lượng vũ trang của các tù trưởng miền núi, gồm: Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu (đông Cao Bằng, tây Lạng Sơn), Thân Cảnh Phúc ở Lạng Châu (Bắc Giang, nam Lạng Sơn), Vi Thủ An ở Tô Mậu (đông Bắc Giang, tây Quảng Ninh). Sau thất bại ở Ung Châu, Vương An Thạch được một thương nhân từ Đại Việt về cho biết:

"Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có 6 vạn, trong đó nhiều đàn bà, trẻ con. Man dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà" [8].

Quân của các tù trưởng không phải là quân đội thường trực của nhà nước mà là lực lượng vũ trang của các dân tộc, họ tự vũ trang và cả nhà cùng tham gia. Trong các cánh quân miền núi, cánh quân của Thân Cảnh Phúc ở Lạng Châu giữ vai trò quan trọng vì nằm trên con đường bộ chủ yếu tiến sang Ung Châu. Cánh quân này bất ngờ vượt biên giới, tiến công chiếm trại Vĩnh Bình rồi qua Tư Minh và cùng với các cánh quân "thượng du" tiến lên vây hãm Ung Châu. Trong thắng lợi của cuộc tập kích Ung Châu, Thân Cảnh Phúc và đội quân động Giáp của Phò mã có công to.

4. Trong lúc Ung Châu bị tiến công, nhà Tống rất bị động lúng túng trong đối phó rồi dần dần mới hình thành chủ trương: lợi dụng khi đại quân Lý đang tập trung ở Ung Châu trên đất Tống, sẽ điều quân đánh thẳng sang chiếm lấy nước ta rồi sau đó sẽ bao vây tiêu diệt quân Lý Thườnh Kiệt tại Ung Châu. Nhưng kế hoạch chưa kịp thực hiện thì Lý Thường Kiệt đã hoàn thành thắng lợi cuộc tập kích và rút quân về nước. Nhà Tống lại phải thay đổi kế hoạch xâm lược và chuẩn bị một cuộc viễn chinh kỹ lượng hơn. Tạm hòa hoãn với Liêu và Hạ ở phương bắc, nhà Tống điều 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn phu phục dịch do tướng Quách Quỳ làm Chánh tướng và Triệu Tiết làm Phó tướng. Bộ binh sẽ tập kết ở Ung Châu rồi theo ba đường bộ qua vùng núi rừng phía bắc tiến về Thăng Long. Các cánh quân này đều phải qua sông Như Nguyệt (sông Cầu) mới tiến được về kinh thành nước Đại Việt. Nhà Tống còn điều động một đội thủy quân, tập kết ở cảng Khâm, Liêm rồi vượt biển theo đường ven biển gọi là Đông Kênh vào sông Bạch Đằng để phối hợp và yểm trợ cho bộ binh vượt sông.

Nhà Tống đang đứng trước nhiều khó khăn về đối nội, đối ngoại, nhất là mối lo Liêu - Hạ ở phía bắc nên không thể điều nhiều quân và kéo dài cuộc viễn chinh phương nam. Trên cơ sở đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của đối phương và qua các nguồn tin do thám, nắm chắc kế hoạch tiến công của quân Tống, triều đình và Lý Thường Kiệt sắp đặt một kế hoạch kháng chiến rất chủ động. Thủy quân của Tống vốn yếu và chỉ làm nhiệm vụ yểm trợ cho bộ binh, nên Lý Thường Kiệt bố trí một lực lượng thủy quân đóng ở Đông Kênh do Lý Kế Nguyên chỉ huy, kiên quyết ngăn chặn không cho thủy binh địch tiến vào đất liền phối hợp với bộ binh. Trên các hướng tiến quân của bộ binh Tống, Lý Thường Kiệt giao cho các tù trưởng thiểu số sử dụng lực lượng vũ trang của các dân tộc miền núi, lợi dụng địa hình hiểm yếu và quen thuộc của quê hương, chặn đánh và tiêu hao quân địch: Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn cùng Nùng Thuận Linh, Sầm Khánh Tân ở Môn Châu (đông Cao Bằng, tây Lạng Sơn), Thân Cảnh Phúc ở động Giáp (nam Lạng Sơn, Bắc Giang), Vi Thủ An ở Tô Mậu (đông Bắc Giang, tây Quảng Ninh). Trên những tuyến đường quan trọng, một bộ phận quân triều đình cũng được điều lên phối hợp với quân các tù trưởng. Phòng tuyến chủ yếu của nhà Lý bố trí ở bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu) nhằm chặn đứng các đạo quân Tống trên đường tiến về Thăng Long. Quân chủ lực của nhà Lý do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy chiếm giữ những vị trí xung yếu trên phòng tuyến này.

Cuối năm 1076, cuộc xâm lược của quân Tống bắt đầu. Trước thế mạnh ban đầu của quân Tống và các thủ đoạn ly gián, mua chuộc, dụ dỗ của nhà Tống, các tuyến phòng thủ miền núi do các tù trưởng phụ trách đã thất thủ và một số tù trưởng hàng giặc. Đó là trường hợp Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu. Cánh quân của Phò mã Thân Cảnh Phúc ở Lạng Châu phải đương đầu với đạo quân chủ lực của Quách Quỳ và đã chiến đấu rất dũng cảm. Quân Tống từ Tư Minh, Bằng Tường tiến vào châu Quang Lang (Lạng Sơn), bị chặn đánh quyết liệt ở ải Quyết Lý (Nhân Lý, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn). Đây là cánh tiền quân của Thân Cảnh Phúc và một bộ phận quân triều đình, có voi chiến yểm trợ. Sau khi vượt qua ải Quyết Lý, quân Tống chiếm được trị sở châu Quang Lang (có lẽ ở vào xã Quang Lang, gần Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng hiện nay). Phía trước quân Tống là đoạn đường hiểm trở, len giữa núi rừng, phía tây là vách núi đá vôi dựng đứng của dãy Bắc Sơn (sau này gọi là núi Cai Kinh). Con đường chính đi qua ải Giáp Khẩu tức ải Chi Lăng, là nơi mà năm 981, tướng Hầu Nhân Bảo đã bị phục binh nhà Tiền Lê tiêu diệt. Tai đây quân của triều đình cùng với quân bản bộ của Phò mã Thân Cảnh Phúc bố trí mai phục sẵn. Quách Quỳ dò biết phục binh của nhà Lý nên sai tướng Tu Kỷ dùng kỵ binh theo đường tắt vòng về phía tây, qua Vạn Linh (thuộc huyện Chi Lăng giáp huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn) tiến xuống bờ bắc thượng lưu sông Cầu (Thái Nguyên). Một bộ phận của cánh quân Tống này tiến sang phía tây uy hiếp mặt nam ải Giáp Khẩu. Quân đội nhà Lý phải rút lui về phía đông nam để hợp lực bảo vệ phòng tuyền Như Nguyệt. Riêng đội quân của Phò mã Thân Cảnh Phúc vẫn ở lại tiếp tục cuộc chiến đấu tiêu hao quân địch.

Ngày 18/01/1077, quân Tống đến sông Như Nguyệt và các đạo quân Tống bị chặn đứng trước phòng tuyến lợi hại của Lý Thường Kiệt. Tại đây, Lý Thường Kiệt đã tổ chức phòng ngự, đánh lui hai cuộc vượt sông tiến công về phía Thăng Long của quân Tống. Bị giam chân ở miền núi rừng phía bắc, thuỷ quân bị ngăn chặn ở ngoài biển, không vào tiếp ứng được, quân Tống ở bắc phòng tuyến Như Nguyệt càng ngày càng bị dồn vào tình thế khó khăn vì thiếu lương thực, vì quân lính bị tiêu hao và sa sút tinh thần. Trong vùng quân Tống chiếm đóng, quân dân ta, nhất là các dân tộc miền núi vẫn hoạt động theo lối đánh phân tán, đánh lẻ rất hiệu quả, trong đó nổi bật lên hoạt động của Phò mã Thân Cảnh Phúc ở động Giáp. Sách Đại Việt sử ký tiền biên đời Tây Sơn dẫn sách Quế hải chí, kể rằng:

"Quân Tống thừa thắng chiếm châu Quang Lang, viên Tri châu là con rể nhà vua, bèn trốn vào trong đám cỏ, thấy quân Tống thì ra giết chết hoặc bắt về xẻo thịt ăn. Người ta cho là vị Thiên thần" [9].

Viên tri châu Quang Lang, con rể vua chắc chắn là Phò mã Thân Cảnh Phúc. Đoạn ghi chép vắn tắt của thư tịch Trung Quốc cho thấy, sau khi quân Tống chiếm được Quang Lang, Thân Cảnh Phúc đã lánh vào rừng núi quê hương, lợi dụng địa hình hiểm trở để tiếp tục cuộc chiến đấu trong vùng địch chiếm theo lối đánh lẻ, đánh lén, đánh tiêu hao. Vùng động Giáp nằm trên con đường giao thông bộ thuận lợi nhất giữa Đại Việt và đất Tống. Đây là con đường trạm dịch, đường sứ giả qua lại, nối liền Ung Châu với Thăng Long. Quân Tống ở bắc sông Như Nguyệt phải giữ con đường huyết mạch này để thường xuyên liên lạc với triều đình qua Ung Châu và để vận chuyển tiếp tế lương thực cho quân viễn chinh. Hoạt động của Thân Cảnh Phúc hẳn gây cho đối phương nhiều khó khăn và góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Thân Cảnh Phúc đã hi sinh trong chiến đấu và được nhân dân tôn vinh là vị Thiên Thần.

Sau hai tháng phòng ngự, kìm chân quân Tống ở bờ bắc sông Như Nguyệt, quân dân ta dồn địch vào tình thế khốn quẩn mà tướng Tống cũng phải thừa nhận:

"Lương ăn của chín đạo quân đã cạn. Lúc ra đi quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng nực và lam chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi, còn non nửa cũng đều ốm" [10].

Vào cuối mùa xuân 1077, quân ta mở cuộc phản công lớn trên phòng tuyến Như Nguyệt, "ban đêm sang sông đánh úp, đại phá quân giặc, quân Tống 10 phần chết đến 5, 6" (Đại Việt sử lược, Q. II, tờ 16b). Trên cơ sở thắng lợi đó, nhà Lý đưa ra giải pháp giảng hòa để mở đường rút lui cho nhà Tống. Quân Tống rút lui đến đâu, quân ta đuổi theo thu hồi đất đai đến đấy, chỉ trừ châu Quảng Nguyên thì đến năm 1079, nhà Tống cũng phải trao trả lại cho Đại Việt [11].

5. Trong thắng lợi oanh liệt của kháng chiến chống Tống năm 1075 - 1077, lịch sử cần ghi nhận công lao và cống hiến to lớn của các tù trưởng cùng với các dân tộc thiểu số miền núi rừng biên cương phía bắc, trong đó nổi bật lên vai trò của dân tộc Tày cổ vùng động Giáp với ba đời Phò mã Châu mục Lạng Châu của Thân Thừa Quý, Thân Thiệu Thái và nhất là Thân Cảnh Phúc.

Thân Cảnh Phúc còn có tên là Thân Cảnh Nguyên hay Thân Đạo Nguyên [12], được vua Lý Thánh Tông gả công chúa Thiên Thành cho năm 1066. Năm 1059, vua Lý Thánh Tông nhân đi săn ở vùng sông Nam Bình (sông Thương) thuộc Lạng Châu, ngự đến thăm nhà Phò mã họ Thân. Quê hương gốc của họ Giáp sau đổi ra họ Thân ở động Giáp. Theo GS. Hoàng Xuân Hãn, chữ Kép chắc là từ chữ Giáp chuyển thành và những vùng mang tên Kép ngày nay vốn là những làng họ Giáp. Trên đất Bắc Giang hiện bảo tồn nhiều địa danh Kép như thị trấn Kép huyện Lạng Giang, trước là Phố Kép thuộc xã Tân Thịnh, đền Kép thuộc xã An Hà, đền Kép thuộc xã Hương Sơn, chợ Kép thuộc xã Tân Thịnh, đều thuộc huyện Lạng Giang; chợ Kép cùng đền Kép, chùa Kép thuộc thôn Kép xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn; chùa Kép thuộc xã Lam Cốt, đình Kép thuộc thôn Kép xã Việt Tiến, huyện Việt Yên... [13]. Họ Giáp, họ Thân hiện nay vẫn còn nhiều trên đất Bắc Giang. Tương truyền đền Hả Hộ ở thôn Kép 2 xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn thờ Thân Cảnh Phúc. Tại đây còn giữ được nhiều đạo sắc (cụ từ cho biết trước có 32 đạo sắc, nay còn 21 đạo). Qua các sắc phong thì rõ ràng đền này thờ các công chúa Thiên Thành, Thiên Thụy, Bình Dương nhà Lý. Có sắc phong cho biết đền còn thờ Tri biên đầu Thượng tướng quân Vũ Thành làm Thành Hoàng. Có người cho rằng Vũ Thành chính là Phò mã Thân Cảnh Phúc. Tuy nhiên vấn đề này còn phải thu thập và xác minh thêm tư liệu.
Phò mã Thân Cảnh Phúc là một Anh hùng của cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, là vị Thiên Thần trong sự tôn vinh của nhân dân.

Phan Huy Lê*

* Giáo sư - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
[1] Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, Q.II, Ngoại quốc môn thượng, An Nam quốc.
[2] Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Nhà xuất bản Sông Nhị, Hà Nội 1949, T. I, tr. 88 và chú thích 6, tr. 100 - 101.
[3] Đại Việt sử lược, Q. II, tờ 5a; Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ Q. II, tờ 19a; Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Q. II, tờ 33a.
[4] Đại Việt sử lược, Q. II, tờ 13a.
[5] Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên, Q. 192, tờ 2b.
[6] Đại Việt sử lược, Q. II, tờ 11b. Đại Việt sử ký toàn thư, Q. III, tờ 2b chép là Dương Bảo Tài.
[7] Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, nguyên văn chữ Hán là ”Toạ đãi địch chí, bất như tiên phát dĩ ách kỳ phong”.
[8] Tục tư trị thông giám trường biên, Sdd, Q. 275, tờ 13b, theo Hoàng Xuân Hãn, Sdd, T. I, tr. 155.
[9] Đại Việt sử ký tiền biên, bản in đời Tây Sơn, Viện nghiên cứu Hán - Nôm, ký hiệu A2 (1-7), Bản kỷ Q.III, tờ 17b. Tham khảo bản dịch, NXB khoa học xã hội, Hà Nội 1997, tr. 247. Đoạn này không tìm thấy trong Quế hải ngu hành chí của Phạm Thành Đại.
[10] Tục tư trị thông giám trường biên, Sdd, Q. 279, tờ 22b, đẫn theo Hoàng Xuân Hãn, Sdd, T.I, tr. 294.
[11] Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng...: “Chiến thắng Như Nguyệt”, trong Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội nhân dân, in lần thứ ba, Hà Nội, 2004, tr. 21-73.
[12] Đại Việt sử lược năm 1059 chép là Thân cảnh Nguyên (Q. II, tờ 11a), năm 1066 chép là Thân Đạo Nguyên (Q. III, tờ 13a).
[13] Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Xuân Cần (chủ biên): Địa chí Bắc Giang, Từ điển, Bắc Giang, 2002.

Bài viết khác

Ba vị quan họ Thân

Một gia đình tộc Thân ở Huế có 3 người thuộc 3 thế hệ đã từng làm quan ở Quảng Nam. Họ luôn để lại những ấn tượng đẹp trong lòng người dân xứ Quảng!

Thân Trọng Một - Con người huyền thoại

Đến bây giờ, gốc cây thị hàng trăm tuổi tại làng Dương Xuân Hạ (Thủy Xuân, TP Huế) vẫn còn hằn in những vết bom đạn của một thời chiến tranh khốc liệt. Cây thị cổ thụ này là niềm tự hào của người dân địa phương, vì nó được xem là “nhân chứng đặc biệt” về cuộc chiến đấu ngoan cường của một người anh hùng đã đi vào sử sách như một huyền thoại…

Thân Văn Nhiếp - nhà quân sự lỗi lạc vị quan cương trực, thương dân

“Ngồi trên chín tầng cung điện nguy nga, nên nghĩ đến nhà cửa của dân Lục tỉnh nay còn gì, an ủi dân nghèo ở kinh đô nên nghĩ đến dân Lục tỉnh ai thương xót”

Bia Tiến sĩ Thân Nhân Trung

“Hiền tài nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quí chuộng kẻ sĩ không biết thế nào à cùng” - Thân Nhân Trung, Bia tiến sĩ khoa nhâm tuất 1442.

"Hiền tài là nguyên khí quốc gia" - Thân Nhân Trung

Trong những năm gần đây, những vấn đề văn hoá giáo dục, vai trò của trí thức được đảng và nhà nước đặt ở vị trí cực kỳ quan trọng. Đảng ta đã nêu lại một câu nói rất nổi tiếng trước đây nhưng hầu như suốt mấy thế kỷ đã bị coi nhẹ