Hán quận công Thân Công Tài (1620-1683) sinh ra và lớn lên ở thôn Như Thiết, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, một vùng quê giàu truyền thống về khoa bảng. Từ vùng đất địa linh nhân kiệt này, Thân Công Tài sớm tiếp thu tư tưởng yêu nước, thương dân. Lớn lên, ông ra làm quan cho triều Lê, lần lượt trải qua nhiều chức vị và được phong đến tước Hán quận công.
Đương thời làm quan, Hán quận công luôn thể hiện là vị quan mẫn tiệp, luôn giữ mình thanh liêm, tận tụy vì việc dân, nghiệp nước. Đất nước có loạn, Thân Công Tài đã cầm quân ra tay trừ dẹp, đem lại sự bình yên cho xã tắc, nhân dân yên ổn làm ăn.
Khi được giao trọng trách trấn giữ biên ải phía Đông Bắc tổ quốc, với tài thao lược, giỏi bang giao ông đã giữ được tình hình biên giới ổn định, đồng thời củng cố tình giao hảo giữa hai nước Việt-Trung. Ông rất để tâm tới việc phát triển kinh tế nơi cửa khẩu, cho san đồi, bạt núi lập hệ thống 7 trục đường, 7 phường hội và gây dựng phố chợ Kỳ Lừa (tiền thân của Thành phố Lạng Sơn ngày nay), làm cho nơi đây trở thành trung tâm buôn bán sầm uất, phồn thịnh của nhân dân 2 nước Việt – Trung. Vì thế mà nhân dân hai nước Việt – Trung tôn ông là “Sư phụ” và coi ông là “Lưỡng quốc khách nhân”. Những giá trị của tư tưởng giao thương quốc tế và tư tưởng đô thị hóa từ rất sớm của ông vẫn còn nguyên vẹn đến ngày nay.
Ngày 11 tháng 8 (âm lịch) năm Chính Hòa thứ 4 (Quý Hợi, 1683) đời vua Lê Hy Tông, Thân Công Tài mất, hưởng thọ 63 tuổi. Di hài ông được an táng nơi quê nhà, và ông được đặt thụy hiệu là Minh Đạt Phủ Quân.
Sau khi ông mất, thương nhân 7 phường ở Lạng Sơn và khách buôn 13 tỉnh Trung Quốc lập đền thờ ông tại phường Hoàng Văn Thụ (Lạng Sơn) lấy tên đền Tả Phủ. Hàng năm, tổ chức lễ hội vào ngày 22 -27 tháng Giêng. Hiện ở đền Tả Phủ vẫn lưu giữ câu đối cổ để tưởng nhớ công lao của ông:
Lịch sử lưu danh truyền hậu thế
Thương trường khai thị Hán quận công.
Hiện nay, từ Lạng Sơn đến Hà Nội có trên 70 nơi thờ ông. Ngoài ra, người dân của 13 châu quận của Trung Quốc cũng tôn sùng và thờ phụng ông như thánh nhân của họ.
Theo cứ liệu lịch sử thì Mộ và đền thờ Hán quận công Thân Công Tài là công trình văn hóa, tín ngưỡng được khởi tạo vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII), trùng tu lớn vào các giai đoạn sau này. Đền hán quận công còn có tên là đền Như Thiết, hay theo dân gian còn gọi là Đền Miễu, được xây vào khoảng năm Chính Hòa thứ 7 (năm 1686). Nơi đây hiện còn lưu giữ cây hương đá cổ thời Lê hình lục lăng, bốn mặt khắc chữ Hán cổ.
Đền thờ Thân Công Tài trước đây có quy mô bề thế nhưng trong giai đoạn đất nước có chiến tranh đã bị tàn phá. Hiện nay, công trình gồm tòa tiền tế hình chữ Nhất 3 gian 2 chái. Trong đền hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý như: cây hương bằng đá hình lục lăng có niên hiệu năm Chính Hòa thứ 7 (1686); hệ thống 28 chân tảng cột đề bằng đá xanh; ngai thờ, bài vị, ống hương...
Hằng năm vào các ngày từ ngày 08 – 11/8 âm lịch, nhân dân hai làng Như Thiết và Đức Liễn lại long trọng tổ chức lễ tưởng niệm ngày mất Hán Quận công Thân Công Tài để thể hiện lòng thành kính, biết ơn người con ưu tú của quê hương.
Năm 2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng khu di tích Mộ và đền thờ Thân Công Tài là Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia.
Thân Cảnh Vân sinh năm Qúy Mùi (1463)
Thân Khuê: Sinh năm Kỷ Tỵ (1593)
Thân Văn Nhiếp (申文㦪, 1804 - 1872), tự Ngưng Chi (凝芝), hiệu Lỗ Đình (魯亭), là một quan đại thần triều Nguyễn.
Thân Trọng Huề (申仲𢤮, 1869-1925), tự là Tư Trung