Chuyện về 'ái nữ' của hoàng đế Minh Mạng và Phò Mã Thân Văn Di

Triều đại nhà Nguyễn, có ba chị em nữ sĩ rất nổi tiếng trong giới thi nhân lúc bấy giờ là Trọng Khanh (hiệu Nguyệt Đình), Thúc Khanh (hiệu Mai Am) và Quý Khanh (hiệu Huệ Phố) - đều là con gái hoàng đế Minh Mạng (1820-1840).

Trọng Khanh, Thúc Khanh và Quý Khanh đã góp phần không nhỏ làm nên sự phong phú trong kho tàng văn học Việt Nam..

Trọng Khanh sớm làu kinh truyện

Trọng Khanh tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (1824-1892), hiệu là Nguyệt Đình, là hoàng nữ thứ 18 của vua Minh Mạng.

Thuở bé Trọng Khanh ở trong cung, năm 1849, bà cùng hai em là Thúc Khanh, Quý Khanh theo mẹ là Thục tân Nguyễn Thị Bửu (1801-1851) ra ở Tiêu Viên trong phủ của anh trai là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Vốn thông minh, ham đọc sách, lại được anh chỉ bảo nên Nguyệt Đình sớm làu thông kinh truyện.

húc Khanh lập ra Thỉnh Nguyệt Đình

Thúc Khanh hiệu Mai Am (1826- 1904) là con gái thứ 25 của vua Minh Mạng và là nữ sĩ nổi tiếng vào nửa cuối thể kỉ 19. Tác phẩm chính của bà tập thơ Diệu Liên thi tập, đã từng được nhiều danh sĩ ngơi ca, ngoài ra còn một số bài ca được người dân Huế truyền tụng.

Sau dời về Sở Tiêu Viên (vườn mía) thuộc khu dinh thự của Tùng Thiện Vương, cũng giống như chị gái Trọng Khanh, Thúc Khanh được tiếp xúc thi thơ từ sớm. Tới tuổi đi học, với thân phận là con cháu hoàng tộc nên bà và chị em không được học ở trường ngoài, mà học trong Tôn học đường do anh ruột Tùng Thiện Vương phụ trách và trở nên nổi tiếng lừng lẫy về tài văn chương trong giới nữ lưu ở đất kinh thành. Bà cũng được coi là người tài năng và nổi tiếng nhất trong tam Khanh khi sáng lập ra Thỉnh Nguyệt Đình, là nơi bà chủ trì các đêm thơ, có sự tham gia của nhiều danh sĩ đất kinh kỳ.

Năm 1850, bà kết hôn với hiệu úy Thân Trọng Di (hay Thân Văn Di, tự Như Phủ) (1825-1885) - cháu nội quan đại thần Thân Văn Quyền (1771-1837), gốc ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Mẹ bà qua đời vào năm sau (12-9-1851). Cuộc sống của bà với Thân Trọng Di, theo nhà thơ Lương An thì "hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hòa hợp".

Năm 1863, bà sinh con trai đầu lòng đặt tên Thân Trọng Mậu, tuy nhiên người con chưa đầy 5 tuổi thì bị bệnh qua đời. Sau này Mai Am không sinh thêm được người con nào nữa. Đau đớn vì mất con, bà đã làm 15 bài thơ khóc con ("Khốc nhi thi - thập ngũ thủ") về sau có đăng trong Diệu Liên thi tập bản tái bản.

Tháng 7/1885, sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn, chồng bà Thân Trọng Di mặc dù đã 60 tuổi vẫn quyết theo vua đi ra Quảng Trị. Trong một đợt tấn công của Pháp, quân của Thân Trong Di tan rã còn bản thân ông bị mất tích giữa rừng, về sau vẫn không tìm được hài cốt; phải lập mộ giả để thờ. Một lần nữa sau khi mất con, Mai Am lại viết 15 bài thơ khóc chồng, được khắc trên ngôi mộ không của ông ở xóm Đông làng Nguyệt Biều, do những người trong gia tộc họ Thân xây dựng.

Mai Am qua đời vào 3/1/1904, thọ 79 tuổi. Ngôi mộ của bà đặt tại làng Nguyệt Biều, nay là xã Thuỷ Biều, thành phố Huế. Tên Mai Am đã được đặt tên cho một con đường nằm ở Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.